TÌM HIỂU NGŨ NGUYỆN TRONG CÚNG TỨ THỜI
Vậy chúng ta xem coi ta nguyện vậy với ý nghĩa là làm
sao? Xin mời quý vị hảy để tâm theo dõi.
Đạo Cao Đài được Đức Chí Tôn sáng lập tại Nam Bộ nước Việt
Nam, đại đa số tín đồ là nông dân, có đức tin tín ngưỡng chân thành với thiêng
liêng và lòng thiết tha yêu nước, yêu dân tộc, yêu chuộng hòa bình do bản chất
hiếu hòa, vốn có của người Việt, Nam-Bộ, được ơn trên truyền dạy Tân Tôn giáo bảo
trì nền văn hóa cổ truyền dân tộc qua nghi lễ tôn giáo, để thể hiện thật rõ nét
tôn giáo dân tộc. Hay nói cách khác. Đạo Cao Đài là một Tôn giáo phát sinh từ nền
văn hóa, đặc thù khu vực đồng bằng Nam bộ, hoặc nền văn hóa đặc thù khu vực
hình thành Đạo Cao Đài, bởi vì thời gian xuất hiện Đạo Cao Đài cũng là thời
gian định hình xã hội Nam-Bộ.
Quan điểm bảo trì văn hóa cổ truyền dân tộc đặc thù khu vực
của Đạo Cao Đài theo tinh thần cởi mở của người Việt Nam ở Nam-Bộ, sẳn sàng đón
nhận tinh hoa tốt đẹp từ bốn phương, từ tinh thần đó. Ơn trên nêu tôn chỉ “ Tam
giáo qui nguyên, Ngũ chi hiệp nhứt”, xóa định kiến, xóa kỳ thị, hòa hợp tín ngưỡng,
hòa đồng nhơn loại, mang tính đại đoàn kết xã hội loài người, không phải vay mượn
hay chấp vá như người ta từng xuyên tạc.
Hôm nay chúng ta hảy xem những việc làm thực tế mà hằng
ngày chư môn đệ của Chí Tôn nguyện ước, cần thực hiện thật tốt trong đời sống với
đạo và xã hội.
Người theo đạo, chỉ tất yếu hướng thiện và hướng thượng,
bước đầu của đời tu hành sửa mình trở thành người tốt, có ích lợi cho xã hội
phát huy đạo đức tôn giáo trước xã hội nhân quần, làm cho nền đạo ngày càng
sáng tỏ, có tốt đạo mới đẹp đời, đạo đức tốt, thì đời sống đẹp, hay là tôn giáo
tốt, thì xã hội đẹp.
Muốn làm được những tốt đẹp như trên đã nói, trước hết chúng
ta thực hiện những điều ta hứa trước mặt Chí Tôn mỗi ngày bốn lược trong khi niệm
hương, mở đề là câu kinh:
“ Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”,
Bao trùm cả giáo lý, gói gọn tư tưởng đạo đức vào bảy chữ của câu kinh, cái gốc
của đạo là sự thành kính, thành thật, tin tưởng và hòa hợp, thành tâm thật ý
trong tín ngưỡng, trong sinh hoạt dẫn độ quần sinh và trong đời sống tu hành sẽ
đi đến thành công, đắc quả. Có thành thật, thành kính với lòng trong sáng không
gợn chút tà niệm nhỏ nhen, mới phát xuất được tư tưởng chân chính, có đức tin
thiêng liêng, niềm tin nhân loại , tín nhiệm lẫn nhau phát xuất tình thương
yêu, hòa thuận, đoàn kết là thuận đạo, ngược lại là trái đạo.
Cũng từ câu kinh trên, các đấng thiêng liêng từng dạy
chúng ta:
“ Hiệp nhứt tư tưởng thuần túy đạo đức”.
Hiệp nhứt tư tưởng không phải buộc tất cả xoay về một ý
nghĩa giống nhau, không được nghĩ khác. Hiệp nhứt những ý thức trưởng thành, những
tương đồng để linh động hóa tiềm năng vô cùng của con người vốn sâu thẳm làm
nét kẻ lưởi cưa theo đúng ni đúng mực… Hiệp nhứt tư tưởng có ý nghĩa rất rộng
là cùng đi trên tiêu chuẩn giống nhau trên chủ thuyết.
“Thuần túy đạo đức” của Đấng Chí Tôn đã dạy:
Thuần túy đạo đức được mô tả trong hình dạng trung hòa
không thiêng lệch, thể theo lòng trời mà phát tiết ra hành động. Thuần túy đạo
đức không phải tách rời mọi hoạt động xã hội, mà là hòa nhập vào xã hội để phát
huy giá trị đạo đức của tôn giáo trong sinh hoạt xã hội thường ngày.
Hiệp nhứt tư tưởng để tiến đến thống nhứt lý tưởng thực
hành đạo đức thuần túy, bước đầu ta cố gắng thực hiện những câu khấn nguyện của
ta với Đấng Chí Tôn mỗi ngày bốn lược sau khi niệm kinh:
“ Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai”
Lời ký hứa để thực hành cụ thể, không đợi quyền năng vô
hình làm thay.
Bởi đạo lý, hư vô bàn bạc trong không gian và tất cả đều
hấp thụ sự sinh tồn bởi đạo. Cái đạo vĩ đại vô cùng, vô tận chúng ta không thể
hiểu hết được.
Lời nguyện Đại Đạo hoằng khai của chúng ta xuất phát từ
nơi chí thành, chí kỉnh tận nơi đái lòng tín ngưỡng. Muốn đem Đại Đạo đưa ra
cho thiên hạ tất phải qua trung gian thiên hạ tức là con người. Đó là những
thiên mạng có trách nhiệm thay Thầy hành đạo, trách nhiệm đó không chỉ riêng
cho hàng thiên phong, chức sắc mà là việc chung của cả chư môn đệ Chí Tôn, bất
cứ ai có tâm thành vì đạo, có nhận thức đạt được lý đạo đều là nhân tố hoằng
khai Đại Đạo bất cứ hình thức nào.
Hoằng khai Đại Đạo không chỉ tuyên truyền rao giảng, mà tự
bản thân người thiên phong tín hữu, toát lên được những cơ bản đạo đức, tôn
giáo, thì xã hội mới thấy được chân giá trị của nền đạo. Người xưa có bảo:
“ Ngôn giáo bất như thân giáo”
Thật chí lý, ta rao giảng thật nhiều về đạo, mà bản thân
ta chưa có đạo, thì không có hiệu quả, mà cụ thể hơn hết là bản thân mình trong
mọi hoạt động nên làm đạo đức chơn chánh, làm tiền đề cho đạo đức tôn giáo.
Đạo đức là đầu mối sinh hoạt xã hội, đối với bản thân
không hủy hoại tinh thần hay thể xác, vì nó là tinh anh của tạo hóa ban cho, đối
với gia đình phải thật sự xứng đáng với vị trí của mình, Nếu là ông bà, cha mẹ
thì phải gương mẫu. Nếu là con cháu thì phải hiếu thảo. Nếu là chồng, vợ thì phải
thủy chung. Nếu là người công dân thì phải trung thành với Tổ Quốc của mình. Vì
đó là đơn vị của xã hội, đơn vị của tôn giáo. Đối với xã hội , lấy nhân, trung,
nghĩa xữ thế tiếp vật. Người sống có đạo đức không có những oán thù trong cuộc
sống, không kỳ thị mà luôn có tình thương, không cầu phước, mà luôn thực hành
ban phước… Từ đó, mới đem chân truyền pháp nhiệm của Chí Tôn đưa vào cuộc sống,
chúng sinh tiếp nhận để trở lại lẽ sống tự nhiên của nhân bản, của chơn như.
Thiên nhiên là đạo.
“ Dưỡng dục quần sanh thống ngự vạn vật”.
Nhựt nguyệt âm dương, mưa nắng điều hòa để cho sự sống trên mặt đất quân bình,
cái đạo của Trời đất rất êm đềm, lặng lẽ mà rất huyền diệu nhiệm mầu, chúng ta
nguyện hoằng khai Đại Đạo tất phải hành động theo đúng cái đạo của Trời đất, thể
hiện Công bình, Từ bi, Bác ái trong êm đềm lặng lẽ mà rất ích lợi cho nhơn loại
xã hội. Hoằng khai không phải quảng cáo phô trương, hoặc làm phép lạ để kích
thích tò mò, mà phải đưa lẽ thật đạo lý siêu nhiên, tự nhiên và đạo đức tôn
giáo đi vào đời sống thật sự.
“ Nhì Nguyện Phổ Độ Chúng Sanh”.
Nói chung tất cả mọi vật có sự sống tại mặt đất từ tế vi
chí đến bậc cao nhất là con người. Phổ độ chúng sinh thì phải tận dụng quyền
năng nhân bản của mình đối với mọi vật, mọi người, không tàn hại bất cứ vật gì,
mà cần phải ban bố tình thương theo đức háo sanh của Thượng Đế, phổ độ không phải
rù quến, bắt ép, hoặc tranh thủ giành giựt cho được nhiều người theo tôn giáo
mình cho thật đông, cũng không phải thu mình trong vỏ ốc chờ đợi huyền linh
thiêng liêng. Mà cần phải phát huy nội lực, phát huy đạo đức, làm cho chúng
sinh cảm nhận được chân giá trị của đạo đức rất chân chính của tôn giáo, qua
sinh hoạt bản thân mình, được xã hội nhìn vào đánh giá cao, từ đó chúng sinh mới
có tự giác về với đạo lần đưa xã hội đến chân, thiện, mỹ nếp sống của chúng
sinh sẽ được đạo đức văn hóa, muốn phổ độ chúng sinh mà chính bản thân ta giữ
chưa tròn pháp giới còn tham, sân, si, tật đố, đạo đức của mình thể hiện chưa đầy
đủ, chưa thật sự chân chính, giử được niềm hòa thuận thương yêu nội bộ chưa tốt
thì vấn đề phổ độ chúng sinh không hiệu quả. Trái lại còn làm cản ngại đức tin,
niềm tin của chúng sinh. Có tác hại lớn lao về giá trị tôn giáo, vì chúng sinh
sẽ đánh giá thấp về cái đạo.
“ Tam Nguyện Xá Tội Đệ Tử”.
Xin xá tội đệ tử trong đó có mình. Nhưng khi xưng tội phải
biết mình đã phạm tội gì, sau khi xưng tội, phải chừa tội.
Thường thì trong cái ích kỷ hẹp hòi của chúng ta luôn muốn
được ơn trên xá tội cho mình, nhưng mình không bao giờ tha thứ lỗi lầm của người
khác, nếu bản thân mình muốn được xá tội, thì hảy tha thứ tất cả những lỗi lầm
của người khác bất cứ là ai đem đến cho mình, để tâm hồn của mình được nhẹ
nhàng thư thái.
Các giáo chủ đời xưa hằng dạy:
“Từ bi hỷ xã cho chúng sinh” hay là “Nhẫn, nhẫn, nhẫn, oan gia trái chủ
tùng thử tận, Nhiêu, nhiêu, nhiêu thiên tai vạn họa nhất đề tiêu” Hoặc: “Nếu
các ngươi tha lỗi cho người ta, thì cha của các ngươi trên trời, cũng sẽ tha thứ
cho các ngươi. Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì cha các ngươi cũng
không tha lỗi cho các ngươi”.
Thiên thượng chí công không vì đa lễ cầu xin mà được
phúc, không vì thiếu lễ, thiếu cầu xin mà buộc tội, tội lỗi do chính mình gây
nên ràng buộc cho mình, cần phải tự mình mở dây ràng buộc, bằng cách xá tội cho
anh em mình, mở rộng tình thương, nâng đỡ cho chúng sinh trên đường tấn hóa đó
là các đức hạnh ban đầu của môn đệ Chí Tôn. Xin xá tội cho mình mà khư khư buộc
tội người khác là ích kỷ hẹp hòi, trái lời cầu nguyện, chưa đủ tư cách là môn đệ
đức giáo chủ Đạo Cao Đài.
“ Tứ nguyện thiên hạ thái bình”.
Nội dung của ba câu trên gần như giải đáp câu nầy khá rõ.
Muốn cho thiên hạ thái bình thì bản tâm mỗi con người có thái bình trước. Trong
khi bản tâm của ta còn chứa nhiều thị dục, tham lam, si mê, ái ố, chấp ngã…phát
xuất từ hành động xấu cho xã hội thì lời nguyện không đạt.
Chơn như bất động, tự lòng phải thanh tịnh bình thản trước
mọi sự việc không cố chấp, không vương vấn hoàn cảnh bởi nhân tâm quanh mình.
Thái bình được xuất hiện từ nội tâm của mỗi con người và nhân rộng ra quãng đại
nhân sinh tác động vào xã hội, mỗi người có được tâm định bình tỉnh, thì thái
bình sẽ đến. Thiên hạ thái bình không dễ có, bởi nhân tâm xã hội. Tuy nhiên là
môn đệ Chí Tôn, phát tâm cầu nguyện thiên hạ thái bình, thì tự nơi mình, phải
thật sự có thái bình trong tâm linh bằng sự chí thành, chí kỉnh với thiêng liêng
và xã hội.
“ Ngũ nguyện Tịnh Thất
an ninh”
Ở đây chúng
ta không nói ngũ nguyện Đại Đạo qui nguyên, vì nó có nội dung và ý nghĩa khác.
Câu nguyện
nầy mới nghe qua thì ai cũng sẽ ngạc nhiên, tại sao Đạo Cao Đài chủ trương đại
đồng nhơn loại, mà chỉ cầu nguyện cho một Thánh Thất, Thánh Tịnh của riêng
mình?
Thực chất
đây là đạo lý !. Tam đài Thánh Tịnh là thánh thể Chí Tôn tượng trưng kiền khôn
vũ trụ, guồng máy Đại Đạo, thánh thể siêu nhiên đó, phải được bình yên, thì kiền
khôn mới an tịnh. Kiền khôn an tịnh thì vạn loại hòa bình, Kiền khôn được an tịnh
thì vạn loại không thù nghịch lẫn nhau, không thù nghịch lẫn nhau thì mới giữ bền
cơ sanh hóa. Kiền khôn được an tịnh mới giữ được bửu vật của trời đất và của
người. Kiền khôn an tịnh nhơn loại mới bình yên, phong hòa vũ thuận, cuộc sống
của nhơn loại mới có an cư lạc nghiệp. Cụ thể hơn, một đơn vị của Đại Đạo bị mất
an ninh, nội bộ sẽ bị ảnh hưởng lớn cho nền đạo. Nếu một bộ phận trong cơ thể bị
đau thì toàn thân không thể khỏe mạnh.
Do vậy,
tình thương yêu đoàn kết, đức độ lượng khoan dung và tha thứ lỗi lầm cho nhau
là đầu mối cho an ninh Tịnh Thất. Nếu chưa thật sự đoàn kết thương yêu, tịnh thất
còn nhiều rắt rối, nội bộ do chấp ngã tranh đấu, giận hờn nhau, chưa hòa thuận
nhau thì tịnh thất chưa an ninh, như vậy bốn câu nguyện bên trên hoàn toàn vô
nghĩa, xem như là lừa dối Chí Tôn, miệng thì luôn khấn nguyện, nhưng thức tế
trong lòng mỗi người còn đố kỵ lẫn nhau, như vậy sẽ trở thành con vẹt học nói,
mà chính nó cũng không biết nói gì, trái lại còn tác hại to lớn đối với công cuộc
mở đạo độ đời của Chí Tôn, vì nền đạo bị chúng sinh phê phán, xem nhẹ, đánh giá
thấp. cái Tịnh thất đó và luôn cả cái hệ thống tổ chức đó.
“ Tạo chúc cầu minh, đọc
kinh cầu lý”.
Chúng ta tụng
kinh không chỉ kể lại thành tích đạo đức của các sư tổ để kính phục, cũng không
phải tụng đọc để các đấng chấm công, hoặc đọc nhiều lần, nhiều ngày để đạt
thành chánh quả. Hay là tụng đọc cho các đấng nghe. Cái sâu xa trong tụng kinh
là tìm hiểu các đấng dạy gì, để ta làm theo lời dạy đó, công phu là định tỉnh lắng
lòng, kiểm điểm sinh hoạt của mình, những điều đúng, điều sai, để sửa chửa.
Kinh Cao
Đài ơn trên dùng chữ Việt, tiếng Việt đặc biệt là ngôn ngữ của cư dân đồng bằng
Nam Bộ, phổ vào thơ văn diệu lý dễ nghe, dễ hiểu, khỏi chờ đợi thích nghĩa. Cho
dù thành phần nào trong xã hội khi nghe và đọc cũng hiểu lời kinh tiếng kệ đó ý
nghĩa ra làm sao và khuyên chúng ta phải làm gì. “ Cái đạo chẳng phải nơi lời nói
suông, mà ở chỗ kết quả sự thật mình làm, không phải nơi câu kinh tiếng kệ. Mà
buộc ở hành vi người giữ đạo, không phải ở sự giảng dạy, mà ở sự thực hành. Cái
hay của Đạo, không phải nơi yếu lý. Mà ở kết quả cuộc giáo truyền !.”
Mỗi ngày bốn lược chúng ta quỳ trước Đức giáo
chủ vô vi niệm kinh, đầu đề là:
“ Đạo gốc bởi lòng thành
tín hiệp” .cuối
đề là: “ Ngũ nguyện tịnh thất an ninh”.
Là những ký
hứa trong chân thành tín ngưỡng, thực hiện tốt được những điều ký hứa đó, thì
đã hoàn thành một phần lớn sứ mạng của mình, đã trở thành Giáo sĩ, truyền đạo
hay là sứ giả thái bình nhơn loại, khỏi phải đi tìm cái gì đó xa xôi, cao vợi
và cũng không chờ đợi phép mầu nào từ vô vi ban đến, hoặc tụng đọc rồi ngồi đó
trông chờ các đấng thiêng liêng sẽ làm thay cho mình? không phải là như vậy.
“Thiên
kinh vạn điển bất quá hồi thiệt” được gợi lại trong câu kinh “ Làm
người nhơn nghĩa xử tròn, muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa”.
Cuối bài,
chúng ta sẽ nghe lại một đoạn Thánh ngôn của Đức Tôn Sư Đông Phương Chưởng Quản
dạy:
“ Chư hiền đệ, hiền muội ý niệm như vậy thì tư tưởng mỗi
người đều đồng nhứt theo đó nếu sai một ly sẽ đi một dặm.
Đường lối
hướng về lý tưởng hay mục đích của Đại Đạo là đem đạo cứu đời lập lại đời thuần
lương thánh đức, nền tảng cốt yếu là như vậy, chớ thật sự không ngoài câu: “
Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ” hoặc “ Nhất trí bách lự”.
Nghĩa là:
Con người cùng về một điểm giống nhau, bằng những đường lối khác nhau và cùng đạt
tới sự hiểu biết duy nhứt, bằng những ý nghĩ suy gẩm khác nhau.
Bần đạo nói
khác nhau đây là những đường lối tạm mượn chớ không phải khác nhau về tư tưởng,
tôn chỉ nêu trên”
“ Đâu là quy hiệp vạn
tôn môn,
Về một ngôi nhà của
Chí Tôn,
Đế đạo đời đây
không nhạc sắc,
Cho người kia chẳng
lạc linh hồn./.
gh
Ý NGHĨA NGŨ NGUYỆN VĂN BÀI:
Hằng ngày cúng tụng cầu ngũ
nguyện,
Phải hiểu rành nghĩa hiện
nghĩa đen;
Gìn lòng hướng thượng
cho quen,
Thực hành công quả, nhúm nhen công
trình.
Lời mình hứa, lời mình khẩn
nguyện,
Thì cố công thực hiện cho
nên;
Chớ đừng ỷ lại ơn
trên,
Mà mình chẳng cố công lên giúp đời.
Nhứt nguyện cầu đạo trời
khai sáng,
Thì bản thân phải ráng thực
hành;
Nhơn năng hướng đạo
độ sanh,
Vì đời bao quản nhọc nhành đắng cay.
Thượng Đế chọn đất nầy mở đạo,
Việc phổ thông truyền giáo do
người;
Tược cành có được tốt
tươi,
Chúng sanh mới gội ơn trời hiếu sinh.
Nhì Nguyện phổ đạo huỳnh
khắp cả,
Cho nhơn sanh cải hóa hồi đầu;
Dòng đời nào ngại cạn
sâu,
Gian nan há ngại dãi dầu nắng mưa.
Khi quần chúng cải chừa tội lỗi,
Thì cán cân xã hội sẽ
nghiêng;
Người dân bỏ dữ làm
hiền,
Nhà yên nước thạnh miên miên thái hòa.
Tam nguyện mở hải hà chi
đức,
Thương chúng sanh nơi vực trầm
luân;
Vô minh nên vướng
nghiệp trần,
Gây nhân tạo quả xoay vần chưa ra.
Càng chuyển kiếp càng sa đọa
mãi,
Càng luân hồi càng lại vô
minh;
Dễ gây bao nỗi tội
tình,
Nên tha thứ họ đồng sinh dắt dìu.
Tự xét còn ít nhiều tội lỗi,
Mà răng lòng sám hối chẳng lờn;
Xét mình thông cảm
tha nhơn,
Khiến người gần gũi khuyên lơn tu
hành.
Hằng cầu nguyện cao xanh tha
tội,
Nỡ lòng nào chấp lỗi đồng
môn;
Sắp mình cầu khẩn
Chí Tôn,
Mà lòng câu chấp còn ơn huệ gì.
Tứ Nguyện đấng Từ bi ban
phước,
Cho chúng sanh hưởng được
thái bình;
Thì lòng ta phải tịnh
thanh,
Chuyển đi thần lực an ninh cho đời.
Kế đó phải đem lời đạo đức,
Khuyên người tu chơn thật huệ
từ;
Bên trong đức hạnh
có dư,
Bên ngoài mới có an cư thái bình.
Thiên hạ là chúng sanh ngoại
cảnh,
Cũng là trong
tâm hạnh của mình;
Đó
là sáu dục bảy tình,
Chế ngăn
cho được thái bình dài lâu.
Ngũ
nguyện là vọng cầu Thánh Thất,
Là
ngôi chùa vật chất hữu hình;
Làm
chi mà mất an ninh,
Hiểu như
thế đó vô tình lắm ru?
Nếu
đồng đạo không tu không tập,
Tánh
tình không thụ hấp nghĩa nhân;
Lòng
hằng si dục tham sân,
Nhỏ nhen tật
đố bâng khuâng dài dài.
Thì
dầu nguyện hết ngày mãn tháng.
Chỉ luống lòng nào đặng an ninh;
Mà lo tu
sửa tánh tình,
Khoan dung hòa ái giữ gìn cho nhau.
Mạnh giúp yếu, kẻ giàu giúp
khó,
Trí giúp ngu, lớn nhỏ dìu
nhau;
Thì dầu chẳng nhọc
nguyện cầu,
An ninh tự nó chực chầu đến ngay.
Thánh Tịnh gồm ba đài cả thảy,
Là Cửu trùng, Bát quái, Hiệp
thiên,
Tương quan thân thể
tam điền,
Biết tu dụng nó làm Tiên siêu phàm.
Tam đài cũng là tam bửu đó,
Trời, Đất, Người nào có khác
chi;
Trời thời Nhựt, Nguyệt, Tinh vi,
Đất
thì Thủy, Hỏa, Phong phi bảo tồn.
Người Tinh, Khí, Thần hồn
bền chặt,
Do đó mà thành Phật, đắc
Tiên;
Học tu phải hiểu
nghĩa huyền,
Mới mong đạt lý siêu nhiên đại thừa.
Đây ngũ nguyện nhặt thưa phân
giải,
Xin ai đừng hiểu trái cạn
nông;
Rồi theo sắc tướng
ngoài vòng,
Để cho ánh đạo trong lòng mờ lu.
Rồi phí uổng công phu một kiếp,
Lẩn quẩn trong tứ hiệp giả
không;
Ra vào trong bánh
xe luân,
Nhà xưa cảnh cũ muôn phần xa xăm.
Vậy tu phải lấy tâm làm gốc,
Tâm cùng trời là một cội nguồn;
Nội tâm tự quản
linh thông,
Thiên nhơn hiệp nhứt huyền đồng là
đây.
Ngược lại nếu những ai vào đạo,
Mà chỉ lo cơm áo gạo tiền;
Chạy theo lợi lộc
uy quyền,
Ẩn trong lớp áo tu hiền khéo khôn.
Đó là lốt bàn môn tả đạo,
Đó là khoa tà giáo hiển danh;
Nội tâm chẳng luyện
chẳng hành,
Để tham sân dục biến sang nẩy mầm.
Dầu có nguyện ngàn năm mãn kiếp,
Thì cũng không giải nghiệp được
đâu;
Huống chi chỉ có
năm câu,
Phóng tâm loạn tưởng vọng cầu mênh
mông./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét